Ung thư tuyến tiền liệu, nguyên nhân và dấu hiệu

Theo thống kê của WHO (2018), bệnh ung thư tuyến tiền liệt đứng thứ 4 trong các loại bệnh ung thư thịnh hành với số lượng gần 1,3 triệu ca bận bịu mới. Ngoài ra, bệnh còn đứng thứ 8 về tỷ lệ tử vong trong các loại ung thư. Tại việt nam, cũng theo hoạch toán bên trênbệnh ung thư tiền liệt tuyến đứng hàng thứ 11 với gần 4 nghìn ca mắc mới & có mật độ tử trận đứng hàng thứ 13.

Ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Ung thư tuyến tiền liệt (tên tiếng Anh: Prostate Cancer) hay ung thư tiền liệt tuyến là một bệnh nam giới thường gặp, đặc biệt là ở độ tuổi trên 50.

Tuyến tiền liệt là cơ quan sinh dục chỉ có ở đàn ông, nặng khoảng 20 – 25 grams. Kích thước của cơ quan này thay đổi theo độ tuổi, phát triển từ khi dậy thì và ổn định ở tuổi 30, sau đó tiếp tục lớn hơn khi nam giới về già. Tuyến tiền liệt nằm phía dưới bàng quang và phía trên trực tràng, cạnh túi tinh (seminal vesicles). Đường dẫn nước tiểu (Uretha) đi xuyên qua trung tâm của tuyến tiền liệt, ra ngoài dương vật). Tuyến tiền liệt có nhiệm vụ tạo ra tinh dịch.

Sự phát triển bất thường, mất kiểm soát của các tế bào tuyến tiền liệt sẽ hình thành khối u ác tính tại đây, dẫn đến ung thư tiền liệt tuyến. Bệnh thường phát triển rất chậm và không có biểu hiện về bệnh lý ở giai đoạn đầu.

Tại Việt Nam, số người đến khám Nam khoa vì bệnh lý tuyến tiền liệt đã tăng lên nhưng đối với ung thư tuyến tiền liệt lại chưa được quan tâm thoả đáng. Cộng với điều kiện để chẩn đoán và phát hiện bệnh của các cơ sở y tế cũng chưa được trang bị đầy đủ, đây chính là lý do bệnh nhân thường chỉ tới bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Điều này khiến việc điều trị rất khó khăn và có khả năng cao gây tử vong.

Các loại ung thư tiền liệt tuyến

Loại ung thư thường gặp nhất là ung thư biểu mô tuyến. Ngoài ra, đôi khi bệnh cũng có thể xảy ra dưới dạng:

  • Ung thư tuyến tiền liệt không biệt hoá
  • Ung thư biểu mô tế bào vảy
  • Ung thư biểu mô ống tuyến chuyển tiếp
  • Sarcoma tuyến tiền liệt (rất hiếm gặp, chủ yếu ở trẻ nhỏ)

Xem thêm: [Tuyến Tiền Liệt] có chức chức năng gì? Và nằm ở vị trí nào?

Các giai đoạn của ung thư tuyến tiền liệt

Ung thư tiền liệt tuyến được chia thành 4 giai đoạn:

  • Giai đoạn I: Tế bào ung thư khu trú tại tuyến tiền liệt. Giai đoạn này kích thước tiền liệt tuyến không to hơn so với kích thước bình thường, thăm khám trực tràng không phát hiện được. Ung thư gần như chỉ được phát hiện khi thấy PSA tăng và làm sinh thiết tuyến tiền liệt.
  • Giai đoạn II: Tế bào ung thư bắt đầu phát triển nhưng chưa phá vỡ vỏ bọc của tuyến. Kích thước tuyến tiền liệt phình lớn. Giai đoạn này có thể phát hiện bằng phương pháp thăm khám trực tràng và thực hiện các xét nghiệm PSA.
  • Giai đoạn III: Tế bào ung thư đã phá vỡ vỏ bọc của tuyến tiền liệt, di căn sang các cơ quan bên cạnh như trực tràng, bàng quang, túi tinh, cơ thắt niệu đạo…
  • Giai đoạn IV: Tế bào ung thư di căn sang hạch bạch huyết và các cơ quan ở xa khác như xương, gan, phổi…

Triệu chứng, dấu hiệu nhận biết ung thư tuyến tiền liệt

Các yếu tố gây ra các triệu chứng lâm sàng về tiết niệu thường gặp chính là do sự phát triển khối ung thư tuyến tiền liệt làm tắc nghẽn lưu thông nước tiểu, tắc nghẽn của bàng quang.

Bệnh nhân bị rối loạn tiểu tiện: cảm giác đi tiểu không hết, còn sót lại nước tiểu sau khi tiểu; Tia nước tiểu yếu, không mạnh như lúc trước; Tiểu không tự chủ, Bí tiểu cấp tính, Tiểu đêm nhiều lần; Nước tiểu có máu…

Các dấu hiệu ung thư khác biệt hẳn so với u lành tính tuyến tiền liệt, khi tế bào ung thư đã lan tỏa hoặc đã có di căn: đau cột sống, đau vùng xương chậu; Xuất tinh có máu hoặc cảm giác đau buốt khi xuất tinh, Phù nề chi dưới. Bệnh nhân còn có thể bị suy thận, gầy sút, thiếu máu… nên thường đi khám tại các chuyên khoa khác.

Nguyên nhân gây ung thư

Hiện nay, nguyên nhân gây ung thư tiền liệt tuyến vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, bệnh đã được chứng minh là có mối quan hệ mật thiết với một số yếu tố như sau, bao gồm:

  • Tuổi tác

Càng lớn tuổi, đàn ông càng dễ bị ung thư tuyến tiền liệt. Dưới 54 tuổi chỉ có 10% trường hợp phát hiện bệnh nhưng con số đã tăng đến 65% ở độ tuổi từ 55-74.

  • Chủng tộc

Nguy cơ người da màu bị ung thư tuyến tiền liệt cao hơn nhóm da trắng ở cùng độ tuổi. Người châu Á, tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn người da đen và da trắng.

  • Tiền sử bệnh trong gia đình

Các trường hợp có bố hoặc anh em trai có tiền sử mắc bệnh thì nguy cơ mắc bệnh lên đến 2 – 3 lần.

  • Tân sản trong lớp biểu mô tuyến tiền liệt (PIN)

PIN liên quan đến nguy cơ mắc ung thư, 25,8% ÷ 51% PIN biệt hoá cao phát triển thành ung thư tuyến tiền liệt.

  • Một số yếu tố khác

Hiện nay, các nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về sinh bệnh học. Trong đó có nguyên nhân liên quan đến một số gene trong quá trình phát sinh và phát triển của tế bào ung thư và các yếu tố nguy cơ như môi trường, tiếp xúc với hóa chất, chế độ dinh dưỡng (ăn nhiều thịt đỏ, ăn ít rau), bèo phì, hút thuốc, mắc bệnh lây qua đường tình dục, viêm tuyến tiền liệt, thắt ống dẫn tinh…

Bệnh ung thư tuyến tiền liệt có nguy hiểm không?

Ung thư tiền liệt tuyến là một căn bệnh nguy hiểm vì nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh sẽ phải đối mặt với nhiều biến chứng khôn lường, chẳng hạn như:

Ung thư tuyến tiền liệt di căn

Theo thời gian, các khối u ác tính ở tuyến tiền liệt có thể di căn đến những cơ quan, mạch máu hoặc hệ bạch huyết lân cận. Thậm chí, khối u còn có khả năng di căn đến xương gây đau và gãy xương.

Khi đã di căn, bệnh vẫn có thể đáp ứng điều trị và được kiểm soát tốt nhưng không thể chữa khỏi hoàn toàn.

Tiểu không tự chủ

Bản thân ung thư tiền liệt tuyến và các phương pháp điều trị đều có thể dẫn đến bệnh tiểu không tự chủ. Giải pháp cho trường hợp này sẽ phụ thuộc vào loại bệnh đang xảy ra, mức độ nghiêm trọng của nó và khả năng cải thiện theo thời gian. Các lựa chọn điều trị bao gồm sử dụng thuốc, ống thông tiểu hoặc phẫu thuật.

Rối loạn cương dương

Đây có thể là biến chứng của bệnh hoặc tác dụng phụ của phác đồ điều trị, thường là phẫu thuật, xạ trị hoặc liệu pháp nội tiết tố. Tình trạng này có thể được cải thiện bằng thuốc hoặc phẫu thuật.

Các phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt

Nhìn chung, ung thư tiền liệt tuyến có thể được điều trị bằng những phương pháp sau:

Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc

Phương pháp điều trị này chỉ định cho những trường hợp ung thư giai đoạn sớm 1 hoặc 2, và ước lượng bệnh nhân có thể sống trên 10 năm. Tế bào ung thư còn khu trú chưa phá vỡ vỏ bao của tuyến, phẫu thuật có thể lấy hết được đến ranh giới an toàn (bờ phẫu thuật không còn mô ung thư) thì khả năng tái phát ở thời điểm 5 năm sau mổ khoảng dưới 10%.

Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc có thể thực hiện bằng phẫu thuật nội soi hoặc phẫu thuật mở vùng dưới rốn. Bác sĩ sẽ cắt hết toàn bộ tuyến tiền liệt, túi tinh và mô quanh tuyến tiền liệt ra ngoài.

Biến chứng sau mổ thường gặp nhất là tiểu không kiểm soát hoàn toàn (5-10%), rối loạn cương (70%).

Tại Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, các bác sĩ thường áp dụng Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc với mục đích giúp bệnh nhân giảm đau và nhanh phục hồi.

Xem thêm: PHÌ ĐẠI TUYẾN TIỀN LIỆT: NGUYÊN NHÂN VÀ TRIỆU CHỨNG

Xạ trị ngoài

Phương pháp này sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt. Thời gian điều trị kéo dài 6 – 7 tuần. Phương pháp này này chỉ định cho những trường hợp ung thư giai đoạn muộn (chủ yếu là giai đoạn 3 và 4).

Các tác dụng phụ thường gặp sau xạ trị là mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa, rối loạn triệu chứng tiểu tiện, rối loạn cương…

Đốt tuyến tiền liệt với siêu âm hội tụ (HIFU)

Đây là giải pháp sử dụng sóng siêu âm (đặt trong trực tràng) để phá hủy tế bào ung thư bằng nhiệt. Phương pháp này thích hợp cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn sớm nhưng không chấp nhận các nguy cơ và biến chứng của phẫu thuật.

Những bệnh nhân có chỉ định xạ trị nếu không chấp nhận cũng có thể điều trị thử nghiệm với HIFU nhưng khả năng tái phát sẽ cao hơn so với xạ trị ngoài.

Biến chứng thường gặp sau HIFU là hẹp niệu đạo, hẹp cổ bàng quang….

Điều trị bằng nội tiết

Điều trị nội tiết chỉ áp dụng cho những bệnh nhân đã có di căn hạch hoặc di căn xa. Bệnh nhân có thể lựa chọn giữa phẫu thuật cắt bỏ 2 tinh hoàn hoặc sử dụng thuốc tiêm (28 ngày/lần, liên tục trong ít nhất 6 – 12 tháng). Mục đích chính là cắt đứt nguồn cung cấp testosteron để tế bào ung thư không thể phát triển tiếp tục.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *